Xuất huyết dưới kết mạc không phải là hiện tượng hiếm gặp. Bệnh đau mắt đỏ mà chảy máu là một nguyên nhân gây ra xuất huyết dưới kết mạc. Bệnh nhân và thậm chí cả người thân luôn cảm thấy lo lắng khi thấy mắt bị xuất huyết, liệu lúc này thị lực của bệnh nhân có giảm không và cách điều trị như thế nào?
1. Xuất huyết dưới kết mạc là như thế nào?
Theo thạc sĩ bác sĩ Hoàng Cương công tác tại Bệnh viện Mắt trung ương thì kết mạc là một màng mỏng, trong suốt và hơi ẩm ướt che phủ bên trên phần lòng trắng của nhãn cầu và bên trong của mi mắt.
Do đó kết mạc chính là lớp màng ngoài cùng để bao bọc vào nhãn cầu. Giác mạc chứa nhiều sợi thần kinh và những mạch máu nhỏ.
Thông thường rất khó quan sát các mạch máu này vì chúng rất nhỏ. Chỉ trường hợp viêm nhiễm khiến những mạch máu dãn nở ra thì mới quan sát được chúng dễ hơn.
Thạc sỹ bác sĩ Cương cũng cho biết bình thường những mạch máu đôi khi bị vỡ do cấu trúc rất thanh mảnh, gây ra hiện tượng xuất huyết dưới kết mạc.
Xuất huyết thường không có dấu hiệu báo trước nào, không đau đớn hoặc khó chịu. Một số người chỉ cảm thấy hơi vướng cộm hoặc nhói khẽ ở vùng mắt bên xuất huyết, còn lại hầu hết bệnh nhân đi khám do phát hiện thấy đau mắt đỏ hoe khi soi gương thấy hay do nghe người khác khuyên.
2. Nguyên nhân gây ra xuất huyết dưới kết mạc
– Chấn thương mắt.
– Những bệnh lý rối loạn đông máu bẩm sinh mắc phải phổ biến.
– Tai biến sau khi tham gia lặn sâu, lặn biển đi kèm với quá trình giảm áp hoặc tăng áp đột ngột của đường thở.
– Chấn thương vùng đầu mặt.
– Ho hay hắt hơi quá mạnh.
– Bệnh tăng huyết áp.
– Sau phẫu thuật LASIK có dùng dụng cụ cố định mắt bằng áp lực âm.
– Viêm kết mạc do Enterovirus 70 và Coxsackie A hay đau mắt đỏ mà chảy máu.
– Nhiễm Leptospira( một loại xoắn khuẩn).
– Do tăng áp lực hệ thống tĩnh mạch vùng đầu mặt trong đó có vùng mắt: bị nôn, ho, hắt xì hơi, sổ mũi, gắng sức do mang vác hoặc rặn đẻ.
– Xuất huyết dưới kết mạc do thiếu vitamin C hay thiếu yếu tố đông máu XIII, thiếu vitamin K.
– Đang dùng các thuốc chông đông máu cho các bệnh tim mạch như Aspirine, Wafarine.
Trong nghiên cứu của các bác sĩ Mỹ trên 104 bệnh nhân xuất huyết dưới kết mạc người ta thấy nguy cơ của bệnh tăng lên rõ rệt nếu đi kèm tình trạng lỏng lẻo kết mạc – conjunctivochalasis. Sự lão hóa hay nếp kết mạc bị thừa nhiều ở vùng cùng đồ sẽ gây ra mạch máu kết mạc dễ vỡ, dẫn tới xuất huyết. Nhiều số liệu cũng cho rằng xuất huyết hay gặp ở phía mũi nhất, rồi lan ra vùng giữa mi và tới vùng thái dương. Xuất huyết nếu do lỏng lẻo kết mạc thường đi kèm với viêm giác mạc chấm nông.
3. Xuất huyết dưới kết mạc có nguy hiểm hay không – cách điều trị?
Hiện tượng này thông thường là lành tính, sẽ tự khỏi và không phải điều trị gì trừ khi đi kèm với viêm nhiễm hay chấn thương. Bệnh nhân nên tới gặp bác sĩ nội khoa để giảm liều nếu đang sử dụng thuốc hay chuyển đổi các thuốc chống đông máu đang sử dụng. Một số bệnh nhân dùng nước mắt nhân tạo, ngày nhỏ 6 lần, nhưng tác dụng của thuốc chỉ để cho dễ chịu chứ không phải để tan máu nhanh. Nếu bạn phát hiện được sớm tình trạng xuất huyết của mình thì không nên day dụi, có thể chườm đá, băng ép mắt để vết xuất huyết khỏi lan rộng, rút ngăn được thời gian điều trị. Thông thường sau khỏang 10 ngày đến 14 ngày xuất huyết sẽ tan.
4. Đau mắt đỏ mà chảy máu nên đi khám không?
Sau khoảng tầm 2 tuần mà xuất huyết không ngừng hay xuất huyết có tình trạng lan rộng hơn thì bạn nên thu xếp thời gian để tới cơ sở y tế khám mắt. Trường hợp xuất huyết ở cả hai mắt đi kèm với xuất huyết ở bộ phận khác như chảy máu chân răng hoặc chảy máu mũi… cũng cần phải được thăm khám sớm.
Cần đi khám mắt cấp cứu ngay lập tức khi xuất huyết dưới kết mạc có kèm một trong những dấu hiệu sau:
– Đau nhức.
– Nhìn mờ, nhìn đôi, khó nhìn.
– Có tiền sử cao huyết áp.
– Có tiền sử các bệnh gây xuất huyết.
– Kèm theo chấn thương vùng đầu mặt.
Tóm lại, bệnh nhân cần khám mắt cấp cứu khi xuất huyết dưới kết mạc hay đau mắt đỏ mà chảy máu đi kèm với một trong các dấu hiệu sau: đau nhức, nhìn mờ, khó nhìn, bệnh nhân có tiền sử cao huyết áp, các bệnh gây xuất huyết, kèm theo chấn thương vùng đầu mặt.
Lưu ý: Thông tin trong bài viết chỉ mang tính chất tham khảo, vui lòng liên hệ với Bác sĩ, Dược sĩ hoặc chuyên viên y tế để được tư vấn cụ thể.