Hội chứng Sheehan: Nguyên nhân, triệu chứng, chẩn đoán và điều trị

Tổng quan bệnh Hội chứng Sheehan

Hội chứng Sheehan là gì?

Hội chứng Sheehan hay suy tuyến yên sau sinh là một rối loạn hiếm gặp, xảy ra do thiếu máu nuôi dưỡng cục bộ sau sinh dẫn đến hoại tử tuyến yên. Hội chứng này được đặt tên theo người đầu tiên mô tả nó là bác sĩ người Pháp H.L Sheehan vào năm 1937.

Tình trạng bệnh lý này diễn ra âm thầm trong thời gian dài, biểu hiện trong khoảng thời gian đầu hậu sản không điển hình nên dễ bị bỏ qua và thường được chẩn đoán muộn. Hội chứng Sheehan có các biến chứng cấp tính nguy hiểm đến tính mạng như hạ đường huyết cấp, suy thượng thận cấp hay rối loạn điện giải nghiêm trọng. Mọi phụ nữ sau sinh đều có khả năng mắc phải hội chứng Sheehan nên cần lưu ý đến khám tại cơ sở y tế khi có các biểu hiện bất thường, đặc biệt là dấu hiệu không có sữa và không có kinh nguyệt trở lại sau sinh.

Nguyên nhân bệnh Hội chứng Sheehan

Cơ chế hội chứng Sheehan hiện nay vẫn chưa được hiểu rõ. Nhiều tác giả cho rằng nguyên nhân trực tiếp gây bệnh là thiếu máu nuôi dưỡng tuyến yên, do mất máu nặng hoặc huyết áp rất thấp sau sinh. Trong thai kỳ, tuyến yên phì đại và tăng kích thước nên nhu cầu cung cấp máu nuôi dưỡng của tuyến yên cũng tăng lên và rất nhạy cảm với tình trạng thiếu máu. Tuyến yên là tuyến nội tiết quan trọng, chỉ huy hoạt động của nhiều tuyến nội tiết khác trong cơ thể. Khi cơ thể không bảo đảm đủ nguồn máu nuôi dưỡng, tuyến yên sẽ bị hoại tử và không tiết đủ hormon. Tình trạng này kéo theo rối loạn chức năng của một loạt các tuyến nội tiết khác như tuyến thượng thận, tuyến giáp, tuyến sinh dục,… và gây ra các bất thường trên lâm sàng.

Sản phụ có thể bị mất máu nhiều do các nguyên nhân như đờ tử cung, chấn thương đường sinh dục, rối loạn đông cầm máu, vỡ tử cung trong thai kỳ hay khi mang thai,…

Triệu chứng bệnh Hội chứng Sheehan

Khi tuyến yên bị suy giảm chức năng, một loạt các tuyến nội tiết khác trong cơ thể cũng bị rối loạn, vì vậy biểu hiện lâm sàng của hội chứng Sheehan khá đa dạng. Các triệu chứng phổ biến mà người bệnh gặp phải bao gồm:

Hội chứng Sheehan: Nguyên nhân, triệu chứng, chẩn đoán và điều trị
  • Không đủ sữa cho con bú: sữa không được tiết hoặc tiết ra không đủ như các bà mẹ khỏe mạnh khác để nuôi con. Dấu hiệu này dễ bị nhầm lẫn với các nguyên nhân thông thường khác nên dễ bị bỏ qua.
  • Không có kinh nguyệt trở lại sau sinh: cùng với dấu hiệu không xuống sữa, vô kinh hoặc kinh thưa sau sinh là hai dấu hiệu chìa khóa gợi ý hội chứng Sheehan khi xuất hiện cùng lúc với nhau. Thông thường sau sinh, phụ nữ có thể tránh thai bằng cách cho bú vô kinh. Khi đó sữa tiết ra đủ để ức chế trục sinh dục hoạt động trở lại.
  • Không mọc lại lông mu nếu trước đó có cạo, lông nách thưa.
  • Vú giảm kích thước.
  • Cơ quan sinh dục ngoài teo nhỏ, lãnh cảm trong quan hệ vợ chồng.
  • Mệt mỏi, giảm hoạt động.
  • Tăng cân hoặc sút cân nhanh chóng.
  • Rối loạn tâm thần, mất tập trung.
  • Sợ lạnh.
  • Co giật, hôn mê, trụy mạch.

Mức độ biểu hiện của triệu chứng của hội chứng Sheehan phụ thuộc vào mức độ tổn thương của tuyến yên, và nặng dần lên khi gặp phải vấn đề sức khỏe khác hay các căng thẳng tâm lý. Triệu chứng của bệnh thường xuất hiện chậm sau sinh khoảng vài tháng, có khi vài năm hoặc vài ngày sau sinh nhờ vào dấu hiệu không có sữa cho con bú. Các biểu hiện lâm sàng này thường không đặc hiệu, dễ bị bỏ sót cho đến khi gặp các biến chứng cấp tính như shock, trụy mạch không rõ nguyên nhân, rối loạn điện giải, hạ đường huyết, …

Đường lây truyền bệnh Hội chứng Sheehan

Hội chứng Sheehan không có tính lây truyền. Nguyên nhân gây bệnh đến từ tình trạng mất máu nặng nề sau sinh gây thiếu máu nuôi dưỡng tuyến yên.

Đối tượng nguy cơ bệnh Hội chứng Sheehan

Bất kỳ sản phụ nào có nguy cơ mắc phải các bệnh lý gây mất máu nặng sau sinh đều tăng khả năng phải đối diện với hội chứng Sheehan. Các yếu tố nguy cơ có thể kể đến như:

  • Mang thai nhiều lần.
  • Đa thai (song thai, tam thai,…).
  • Đa ối.
  • Thai con to.
  • Ngôi ngược.
  • Chuyển dạ kéo dài.
  • Vỡ tử cung.
  • Chấn thương đường sinh dục.
  • Sót nhau sau sinh.
  • Nhau tiền đạo, nhau cài răng lược.
  • Rối loạn đông cầm máu.
Hội chứng Sheehan: Nguyên nhân, triệu chứng, chẩn đoán và điều trị

Phòng ngừa bệnh Hội chứng Sheehan

Một số biện pháp giúp hạn chế được sự ảnh hưởng của hội chứng Sheehan như sau:

  • Phụ nữ có ý định mang thai cần đi khám sức khỏe và khám thai định kỳ đầy đủ.
  • Ăn uống đầy đủ chất dinh dưỡng cho thai kỳ.
  • Chế độ thai sản, nghỉ ngơi hợp lý.
  • Nếu có bất kỳ yếu tố nguy cơ của tình trạng mất máu cấp, cần đến khám tại các bác sĩ chuyên ngành sản phụ khoa để được tư vấn, theo dõi sát cho tới khi chuyển dạ sinh con.
  • Những thai phụ đã bị mất máu nặng nề khi sinh cần lưu ý để phát hiện các biểu hiện bất thường kịp thời.

Các biện pháp chẩn đoán bệnh Hội chứng Sheehan

Việc chẩn đoán hội chứng Sheehan còn gặp nhiều khó khăn do người bệnh thường phát hiện muộn và các biểu hiện lâm sàng của bệnh dễ bị nhầm lẫn với các bệnh lý khác như suy nhược cơ thể sau sinh, suy nhược thần kinh,… Vì vậy, thăm khám lâm sàng và khai thác tiền sử, bệnh sử thôi là chưa đủ, bác sĩ cần chỉ định các xét nghiệm cận lâm sàng để chẩn đoán bệnh:

  • Định lượng hormon tuyến yên và các tuyến nội tiết khác như định lượng cortisol của hormon tuyến thượng thận, FT3 FT4 của hormon tuyến giáp, estrogen, progesteron của hormon tuyến sinh dục.
  • Công thức máu.
  • Xét nghiệm định lượng các chất điện giải.
  • Xét nghiệm kích thích hormon tuyến yên, chỉ thực hiện khi có sự tham khảo ý kiến của bác sĩ nội tiết.
  • Ct scan hoặc MRI sọ não: kiểm tra kích thước tuyến yên, loại trừ các nguyên nhân gây suy tuyến yên khác.

Các biện pháp điều trị bệnh

Tổn thương tuyến yên trong hội chứng Sheehan là tổn thương không hồi phục. Hiện nay điều trị hội chứng Sheehan chỉ dừng lại ở việc điều trị bổ sung các hormon bị thiếu và được thực hiện kéo dài suốt đời.

  • Corticosteroid thay thế cho hormon tuyến thượng thận.
  • Levothyroxin thay thế cho hormon tuyến giáp.
  • Estrogen đơn thuần hoặc estrogen phối hợp với progesterone thay thế cho hormon tuyến sinh dục, và thường nên điều trị cho đến thời kỳ mãn kinh tự nhiên của phụ nữ.

Việc điều trị cần được theo dõi thường xuyên bằng cách định lượng các hormon trong máu và điều chỉnh tùy theo tình trạng sức khỏe, cân nặng, và các vấn đề căng thẳng tâm lý trong cuộc sống của người bệnh.

Nguồn: Vinmec

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *