Từ đầu năm 2020, song song với dịch Covid-19 thì bệnh bạch hầu cũng đang trở thành nỗi lo lắng khi xuất hiện tại nhiều địa phương nước ta như Quảng Nam, Quảng Ngãi, Kon Tum, Gia Lai, Đăk Lăk… Trong hàng chục ca nhiễm bệnh được phát hiện và điều trị, đã có một vài trường hợp tử vong.
Vậy bệnh bạch hầu là gì? Nguyên nhân nào gây bệnh, chúng ta cùng tìm hiểu nhé!
Bệnh bạch hầu (Diptheria) là gì?
Đây là bệnh nhiễm khuẩn ở thể cấp tính có giả mạc ở tuyến hạnh nhân, hầu họng, thanh quản, mũi. Bệnh có thể xuất hiện ở các vùng khác nhau trên cơ thể như da, các màng niêm mạc như kết mạc mắt, thậm chí là cả bộ phận sinh dục.
Đây là một bệnh vừa nhiễm trùng vừa nhiễm độc và các tổn thương nghiêm trọng gây ra cho cơ thể là từ ngoại độc tố của vi khuẩn bạch hầu có tên khoa học là Corynebacterium diphtheria.
Vi khuẩn từ các mảng trắng trên các vùng cơ thể có thể tiết ra nội độc tố, dễ gây suy hô hấp và tuần hoàn, sặc và khó nuốt khi ăn uống, lú lẫn, liệt khẩu làm thay đổi giọng nói; nặng thì hôn mê, sau đó tử vong.
Một số trường hợp biến chứng làm viêm cơ tim hay viêm dây thần kinh ngoại biên. Những đối tượng không được tiêm phòng, hoặc không được điều trị kịp thời thì tới 10% trường hợp sẽ tử vong mặc dù đã dùng kháng sinh và điều trị bằng thuốc chống huyết thanh.
Ở Việt Nam, khoảng 5 năm trở lại đây thì bệnh bạch hầu liên tiếp xuất hiện nhiều tại những tỉnh ở miền Trung, Tây Nguyên như Quảng Nam, Quảng Ngãi, Đà Nẵng, Đắk Lắk… Từ rải rác chỉ xuất hiện một, hai trường hợp ở một số vùng thì gần đây liên tiếp báo cáo tới hàng chục bệnh nhân nhiễm bệnh. Đầu năm 2020, sở Y tế tại Đắk Lắk ghi nhận trường hợp 11 người cùng nhập viện vì nghi mắc bệnh bạch hầu sau khi cùng đi đám tang về, trong đó có 7 trẻ em và 4 người lớn.
Nguyên nhân gây ra bệnh bạch hầu là gì?
Vi khuẩn Corynebacterium diphtheriae là nguyên nhân gây ra bệnh bạch hầu. Vi khuẩn này có 3 type chính là Gravis, Mitis và Intermedius.
Vi khuẩn bạch hầu này sẽ tiết ra các độc tố gây tổn thương nhiều tổ chức và cơ quan của cơ thể. Ổ chứa vi khuẩn bạch hầu thường nằm ở người bệnh và cả người lành mang vi khuẩn. Đây chính là ổ chứa cũng là nguồn truyền bệnh.
Bệnh khởi phát cấp tính và các đặc điểm chính là đau họng, sốt và sưng hạch ở cổ. Độc tố bạch hầu làm cho màng mô chết đi và tích tụ trên cổ họng và amidan, khiến việc thở và nuốt trở nên khó khăn.
Ô chứa vi khuẩn bạch hầu là người bệnh và người khỏe mạnh mang vi khuẩn. Bệnh lây truyền qua đường hô hấp hoặc tiếp xúc với người bị nhiễm vi khuẩn bạch hầu. Bên cạnh đó, sữa tươi cũng có thể là phương tiện lây truyền vi khuẩn bạch hầu. Sau khi nhiễm vi khuẩn bạch hầu, người bệnh thường ủ bệnh trong khoảng 2 – 5 ngày hoặc hơn.
Người bệnh bạch hầu có triệu chứng viêm họng, mũi và thanh quản, họng đỏ, đau khi nuốt, da xanh tái, mệt mỏi, nổi hạch dưới hàm làm sưng tấy vùng cổ. Trong vòng 2 – 3 ngày, những mảng bám màu xám, dính, chắc sẽ xuất hiện ở vùng hầu họng, nếu cố gỡ ra có thể gây chảy máu.
Bạch hầu thanh quản là 1 dạng thể bệnh đã nặng ở trẻ em, biểu hiện chính là giả mạc thanh quản và biểu hiện toàn thân là nhiễm độc thần kinh, thần kinh cảm giác, thần kinh vận động ngoại biên, tê liệt thần kinh sọ não và viêm cơ tim. Bệnh có thể qua khỏi hoặc có thể gây tử vong trong vòng 6 – 10 ngày. Tỷ lệ tử vong do bệnh nằm khoảng là 5 – 10%.
Ai là đối tượng dễ mắc bệnh bạch hầu?
- Trẻ em và người lớn ở mọi độ tuổi nếu có tiếp xúc với người bị nhiễm bạch hầu hoặc đi du lịch đến các vùng dịch tễ của bệnh bạch hầu mà nhưng chưa được tiêm vắc-xin phòng bệnh.
- Những người có miễn dịch suy giảm.
- Người sống trong khu dân cư quá đông đúc hoặc mất vệ sinh.
- Miễn dịch bảo vệ sau tiêm vắc-xin thường kéo dài khoảng 10 năm, hiệu quả bảo vệ của vắc-xin cao (lên đến 97%) nhưng kháng thể trong cơ thể sẽ giảm dần theo thời gian, do vậy nếu không tiêm nhắc lại vẫn có khả năng mắc bệnh.
Triệu chứng bệnh bạch hầu
Các dấu hiệu và triệu chứng bạch hầu thường bắt đầu từ 2-5 ngày sau khi bị nhiễm bệnh như sau:
- Dấu hiệu giả mạc hai bên thành họng, quan sát bằng mắt thì có màu trắng ngà, xám, đen, sờ dai, dính, dễ chảy máu.
- Đau họng và khàn giọng.
- Sưng hạch bạch huyết ở cổ.
- Khó thở hoặc thở nhanh.
- Chảy nước mũi.
- Sốt và ớn lạnh.
- Khó chịu.
Ở một số người, nhiễm vi khuẩn bạch hầu gây ra chỉ gây ra các triệu chứng bệnh nhẹ hoặc không có dấu hiệu và triệu chứng rõ ràng nào cả. Những người đã nhiễm bệnh nhưng vẫn không biết rằng mình đang mang bệnh bạch hầu (carriers of diphtheria) và có thể lây truyền bệnh cho cộng đồng dù không có triệu chứng bị bệnh.
Một loại bạch hầu thứ hai mà có thể gây ảnh hưởng đến da với triệu chứng đau, đỏ và sưng, loét bao phủ, quan sát mắt thường sẽ thấy một màng màu xám ở vùng hầu, và từ đó cũng có thể phát triển trong bệnh bạch hầu trên da.
Mặc dù bệnh này phổ biến, dễ gặp hơn ở vùng khí hậu nhiệt đới nhưng bệnh bạch hầu trên da cũng xảy ra ở cả Hoa Kỳ, đặc biệt là ở những người có chế độ vệ sinh kém và sống trong điều kiện đông đúc dân cư.
Như vậy, bạch hầu là căn bệnh nguy hiểm dễ lây truyền nên mỗi người phải có biện pháp dự phòng cho bản thân, tránh mắc phải căn bệnh này.
Nguồn Tham khảo: Tổng hợp
Lưu ý: Thông tin trong bài viết chỉ mang tính chất tham khảo, vui lòng liên hệ với Bác sĩ, Dược sĩ hoặc chuyên viên y tế để được tư vấn cụ thể.