Gen APC là gì?

1. Gen APC là gì?

Gen APC (adenomatous polyposis coli gene) là một gen ức chế khối u đa chức năng, gồm 8972 cặp base (bp) nằm trên nhiễm sắc thể 5q21. Sản phẩm của gen APC là một protein gồm 2.843 gốc acid amin, có khả năng gắn với nhiều loại protein khác nhau như β-catechin, actin, CtBP, Asef, IQGAP1, EB1 và với nhiều vi cấu trúc hình ống.

Các đột biến dòng mầm ở gen APC có thể gây bệnh đa polyp tuyến gia đình (Familial adenomatous polyposis: FAP) với đặc điểm là có hàng trăm đến hàng nghìn polyp ở đại trực tràng. Các đột biến ở gen APC được tìm thấy trong khoảng 60-80% ung thư biểu mô đại trực tràng và ung thư đại trực tràng thể ngẫu nhiên. Các nghiên cứu di truyền sử dụng chuột bị gây đột biến và tế bào ung thư nuôi cấy đã chứng minh rằng các đột biến ở gen APC liên quan đến quá trình ung thư hóa ruột. Gen APC có vai trò ngăn chặn con đường tín hiệu Wnt kinh điển – con đường cần thiết cho sự hình thành khối u, protein APC còn có vai trò đối với sự phát triển và sự hằng định nội môi (homeostasis) của nhiều loại tế bào, như các tế bào biểu mô và các tế bào lympho.

2. Công dụng của Gen APC

Gen APC cung cấp các hướng dẫn để tạo ra protein APC, đóng vai trò quan trọng trong một số quy trình của tế bào. Protein APC hoạt động như một chất ức chế khối u, có nghĩa là nó giữ cho các tế bào phát triển và phân chia quá nhanh hoặc theo cách không kiểm soát được. Nó giúp kiểm soát mức độ thường xuyên của một tế bào phân chia, cách nó gắn vào các tế bào khác trong mô và liệu một tế bào di chuyển trong hoặc ra khỏi mô. Protein này cũng giúp đảm bảo rằng số lượng nhiễm sắc thể trong một tế bào là chính xác sau khi phân chia tế bào. Protein APC hoàn thành các nhiệm vụ này chủ yếu thông qua sự liên kết với các protein khác, đặc biệt là các protein có liên quan đến việc gắn và truyền tín hiệu tế bào.

Một protein mà APC liên kết là beta-catenin. Beta-catenin giúp kiểm soát hoạt động (biểu hiện) của các gen cụ thể và thúc đẩy sự tăng trưởng và phân chia (tăng sinh) của các tế bào và quá trình các tế bào trưởng thành để thực hiện các chức năng cụ thể (biệt hóa). Beta-catenin cũng giúp các tế bào gắn kết với nhau và rất quan trọng cho sự hình thành mô. Sự kết hợp của APC với các tín hiệu beta-catenin cho beta-catenin bị phá vỡ khi không còn cần thiết

3. Nhu cầu

APC là một gen ức chế khối u quan trọng. Đột biến ở APC được gắn liền với sự phát triển của u tuyến đại trực tràng và ung thư biểu mô. Để đánh giá sự hiện diện của khuynh hướng di truyền ung thư đại trực tràng ở thời kỳ tiền công nghiệp, các nhà nghiên cứu đã cố gắng để khuếch đại vùng MCR của gen APC của DNA thu được từ các cơ quan nội tạng của xác ướp Vác. Trình tự vùng MCR của gen APC đã thu được thành công từ ba xác ướp. Đây là một biến thể gen APC khi thay glutamine ưa nước không tích điện thành glutamate ưa acid. Đột biến này có liên quan chặt chẽ với khuynh hướng phát triển của u tuyến đại trực tràng và ung thư đại trực tràng.

Polyppose tuyến gia đình (polypose adenomatose) là bệnh hiếm (1% ung thư đại trực tràng), di truyền gen trội đột biến gen APC trên nhiễm sắc thể 5. Tiến triển thành ung thư. 3 biểu hiện ngoài đại tràng: adenome của tá tràng và của bóng Vater, biến dạng răng và xương, phì đại lớp tế bào sắc tố ở võng mạc. Điều trị cắt đại tràng toàn bộ từ tuổi 15 và nối hồi tràng – hậu môn tránh được nguy cơ ung thư đại trực tràng. Theo dõi 3 năm /1 lần với các tổn thương dạ dày tá tràng bằng nội soi tiêu hóa trên và sinh thiết, siêu âm nội soi (nghi ngờ u ác tính hóa). Phát hiện tính chất gia đình: Tìm các đột biến gen ở người bệnh và gia đình thế hệ thứ một nếu dương tính, nội soi đại tràng hàng năm từ 10 – 40 tuổi. Hội chứng Gardner (nguy cơ như Polyppose Adenomatose gia đình + nguy cơ khối u xơ ở bụng rất to và thường tử vong). Polypose thiếu niên (Zuvenile) di truyền gen trội u Hamartome ruột non – đại tràng, hiếm khi thành ác tính. Bệnh Peutz – Zeghers di truyền gen trội, U Hamartome kèm nốt ruồi son quanh các lỗ, không chuyển thành ác tính.

Gen APC là gì?

4. Những vấn đề cần lưu ý

Nếu tiền sử sức khỏe bản thân và gia đình có những đặc điểm sau thì nên xem xét tiến hành xét nghiệm di truyền cho ung thư đại trực tràng:

  • Khởi phát sớm ung thư đại trực tràng, từ tuổi 50 trở xuống với một vài u tuyến ở ruột kết
  • Một cá nhân mang nhiều loại ung thư, trong đó có ung thư đại trực tràng
  • Có hơn 10 polyp trong đời
  • Mắc phải ung thư đại trực tràng với sự bất ổn định microsatellite hay kết quả nhuộm miễn dịch âm tính với một loại protein sửa chữa bắt cặp di truyền sai trong khối u
  • Có thành viên ruột thịt ở nhiều thế hệ mắc các bệnh ung thư liên quan (như ung thư ruột kết, tử cung, buồng trứng và/hoặc ung thư dạ dày)
  • Có biểu hiện đặc trưng của các hội chứng ung thư di truyền đã được nhắc đến, như Hội chứng Lynch, FAP, MAP, Hội chứng Cowden và nhiều hội chứng khác
  • Đã tiến hành xét nghiệm di truyền do tiền sử gia đình cho thấy khuynh hướng mang bệnh ung thư di truyền, các kết quả xét nghiệm đó đều âm tính

Nguồn: Vinmec

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *